[Lyrics + Vietsub] Futari No Kisetsu Ga - Sasaki Nozomi (Bokura Ga Ita Ending 5 OST)
undefined | Cha A School (Season 4)
Lúc này, các doanh nghiệp Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc đã bắt đầu chuyển từ LSI (tích hợp quy mô lớn) sang VLSI trong quy trình thiết kế và sản xuất, và Đài Loan cần phải đuổi kịp nhanh chóng. Có một doanh nghiệp mới trong ngành do Morris Chang dẫn đầu sẽ không chỉ thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực tư nhân mà còn tạo nên động lực đổi mới để bước vào VLSI, khi các doanh nghiệp lớn khác như Tatung và UMC vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận rủi ro để đầu tư vào các công nghệ mới.
Năm 1987, ông Chang thành lập Tập đoàn Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan, còn được biết đến với tên viết ngắn là TSMC. Ngay từ lúc này, mô hình kinh doanh của tập đoàn này đã rõ đối với ông – TSMC sẽ chỉ sản xuất chip cho các công ty khác, chứ không phải thiết kế chúng. Điều này có nghĩa rằng rào cản công nghệ của TSMC thấp hơn nhiều so với các đối thủ tại châu Á, do tập đoàn này chỉ cần tập trung vào một lĩnh vực Đài Loan đã làm tốt lúc đó – sản xuất. Như một doanh nghiệp đúc chip “thuần tuý” (pure-play foundry), TSMC không có sản phẩm riêng của công ty.
Vì vậy, TSMC đã phát triển mạnh dựa trên cách tiếp cận là không cạnh tranh với các công ty khác trên thị trường, mà thay vào đó tiếp cận họ như các khách hàng và cam kết sẽ giảm chi phí hoạt động của họ nếu chọn TSMC. Trong một cuộc phỏng vấn hồi năm 2004 với Feng Wei-Zhong, Tổng thư ký phòng Nhân sự của TSMC, ông nói “điều này có nghĩa chúng tôi không chỉ giúp khách hàng sản xuất, mà còn cải tiến sản phẩm của họ bằng công nghệ tiên tiến của chúng tôi”.
Cách để TSMC tiếp cận và làm chủ các công nghệ tiên tiến như một doanh nghiệp “đi sau ngành” cũng là một bài học đáng chú ý. Khi mới thành lập, TSMC yêu cầu có một khoản đầu tư 200 triệu USD để đi vào hoạt động, và Chính phủ Đài Loan đã đồng ý cung cấp gần một nửa số tiền tài trợ với điều kiện là một phần của nguồn tài chính cũng cần đến từ một tập đoàn nước ngoài. Trong khi Chang đã thiết lập mối quan hệ đối tác với bốn tập đoàn – TI, Intel, Matsushita, và Philips - chỉ có Philips sẵn sàng tham gia vào một liên doanh như nhà đầu tư chính.
Với cam kết từ tập đoàn Hà Lan này, TSMC sớm có được công nghệ cần thiết sau khi đạt được thoả thuận với Philips, chuyển giao công nghệ sản xuất và giấy phép sở hữu trí tuệ để đổi lấy 27,6% vốn cổ phần. Philips trở thành nhà cung cấp công nghệ tiên tiến chính cho TSMC trong những năm đầu, đồng ý chuyển giao miễn phí công nghệ xử lý chế tạo tấm wafer VLSI 2 micron và 1,5 micron để đổi lấy quyền tiếp cận dịch vụ đúc chip của TSMC.
Cùng lúc đó, Philips đã chuyển giao các thông số kỹ thuật cụ thể để giúp TSMC tiếp tục có khả năng đáp ứng đơn hàng của Philips. Do chỉ tập trung vào công nghệ sản xuất, TSMC đã sớm bắt kịp Phillips và đến cuối những năm 1980, khi bắt đầu áp dụng công nghệ 0,8 micron thì không còn phụ thuộc vào chuyển giao công nghệ của Philips nữa. Trong khi hợp tác với Philips, TSMC cũng đã phát triển khả năng công nghệ riêng của mình thông qua các chương trình hợp tác R&D mạnh mẽ với ITRI, nhằm thay thế sự phụ thuộc vào công nghệ của Philips với các trung tâm nghiên cứu bản địa. Chiến lược này đã cho phép TSMC phát triển các mối quan hệ trong thị trường địa phương, hợp tác và phát triển năng lực của các nhà cung cấp thiết bị và linh kiện nội địa, cũng như là đầu tư lớn vào hoạt động R&D tại các trung tâm nghiên cứu và đào tạo nhân lực Đài Loan.
Với việc TSMC khởi xướng một lĩnh vực hoàn toàn mới trong ngành bán dẫn, mô hình xưởng đúc bắt đầu gây ảnh hưởng lớn lên ngành bán dẫn toàn cầu. Sự sẵn có của dịch vụ sản xuất chip của TSMC, và sau đó khi UMC cũng trở thành xưởng đúc thuần tuý vào năm 1995, đã làm giảm đáng kể chi phí tham gia vào ngành của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do các doanh nghiệp không cần phải chi ra hàng tỷ USD để xây dựng các nhà máy sản xuất chip, thế giới đã chứng kiến sự bùng nổ của nhiều nhà thiết kế chip vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21.
Còn được biết đến với cái tên “fabless”, có nghĩa là công ty bán dẫn không có fab (xưởng đúc chip), các doanh nghiệp này dẫn đầu bởi NVIDIA và AMD tại Thung lũng Silicon, và hầu hết các đơn hàng của họ nay được sản xuất bởi TSMC, cũng như là những người đi sau như UMC, GlobalFoundries tại Mỹ, và SMIC tại Trung Quốc.
: There are 4% of sociopath living on earth. So, how much percentage do you think it is to fall in love with one? Yoo-Jung is a sociopath, who looks perfectly normal, or maybe too ideally normal. Hong-Seol is a diligent over-achieving university student with keen senses. She feels that Yoo-Jung definitely does not like her, but can’t tell exactly why. However, all of a sudden, he starts to act nice. Not knowing why, Hong-Seol begins to feel attracted to him. As the time goes, she still can’t erase the feeling that something is wrong. Will their feelings for each other last?